Hôn nhân thực tế trước 03/01/1987 mang đậm dấu ấn những giá trị truyền thống, nơi tình yêu và trách nhiệm được định hình bởi nguyên tắc văn hóa và xã hội. Cùng với sự phát triển của pháp luật, đặc biệt trong lĩnh vực Hôn nhân và gia đình, quan hệ hôn nhân thực tế được công nhận và bảo vệ quyền lợi đầy đủ hơn.

Vậy hôn nhân thực tế là gì? Khi nào hôn nhân thực tế được công nhận? Trong bài viết dưới đây, Quý bạn đọc cùng Hãng luật MIBI tìm hiểu các quy định pháp lý liên quan đến hôn nhân thực tế.

1. Quy định pháp luật
1.1. Hôn nhân thực tế được hiểu như thế nào?

Hiện nay, các văn bản pháp luật hiện hành chưa đưa ra khái niệm cụ thể về hôn nhân thực tế. Nhắc đến hôn nhân thực tế, thông thường sẽ được hiểu là việc nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng nhưng không đăng ký kết hôn, từ đó phát sinh quyền và nghĩa vụ tương tự như quan hệ vợ chồng đã đăng ký kết hôn.

1.2. Khi nào hôn nhân thực tế trước ngày 03/01/1987 được công nhận?

Theo khoản 2 Điều 44 Nghị định 123/2015/NĐ-CP đã ghi nhận trường hợp nam nữ chung sống như vợ chồng trước ngày 03/01/1987 với nội dung:

Đối với trường hợp nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng trước ngày 03 tháng 01 năm 1987 mà chưa đăng ký kết hôn thì được khuyến khích và tạo điều kiện để đăng ký kết hôn. Quan hệ hôn nhân được công nhận kể từ ngày các bên xác lập quan hệ chung sống với nhau như vợ chồng.

Do đó, trường hợp nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng trước ngày 03/01/1987 mà chưa đăng ký kết hôn vẫn sẽ được pháp luật công nhận là vợ chồng.

2. Án lệ 41/2021/AL về hôn nhân thực tế

Án lệ số 41/2021/AL về hôn nhân thực tế được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 23/2/2021 đã giải quyết vấn đề xác định quan hệ hôn nhân thực tế. Đây là tiền đề để xác định quyền và nghĩa vụ các bên trong việc chia tài sản chung và hưởng di sản thừa kế.

2.1. Nguồn của Án lệ

Án lệ số 41/2021/AL được trích trong Bản án dân sự phúc thẩm số 48/2010/DSPT ngày 29/7/2010 của Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng về vụ án “Tranh chấp chia di sản thừa kế và chia tài sản chung” tại tỉnh Kon Tum, giữa nguyên đơn là chị Trần Thị Trọng P1 với bị đơn là anh Trần Trọng P2 và anh Trần Trọng P3; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan gồm 06 người.

Năm 1969, ông Trần Thế T1 chung sống với bà Tô Thị T2, có 02 người con là Trần Trọng P2 và Trần Trọng P3. Do mâu thuẫn vợ chồng, bà T2 bỏ vào Vũng Tàu sinh sống và kết hôn với ông D. Năm 1985, ông T1 chung sống với bà Trần Thị S có con chung là Trần Thị Trọng P1.

Sơ đồ tóm tắt vụ việc:

Sơ đồ tóm tắt vụ việc hôn nhân thực tế (Tổng hợp: Hãng luật MIBI)

Sơ đồ tóm tắt vụ việc

Năm 1987, ông T1 được cấp đất vườn tại phường Q, thị xã K. Năm 2000, ông T1 và bà S có đơn xin xác nhận quyền sở hữu nhà ở, xác nhận nhà trên diện tích đất nêu trên là của ông T1 và bà S. Ngày 26/3/2003, ông T1 chết không để lại di chúc, toàn bộ tài sản do anh P2 và anh P3 quản lý sử dụng.

2.2. Nội dung Án lệ số 41/2021/AL

a. Vị trí án lệ

Đoạn 3, 4 phần “Nhận định của Tòa án”.

b. Nội dung án lệ

[3] Xét bà Tô Thị T2 chung sống với ông T1 không đăng ký kết hôn, đến năm 1982 bà T2 đã bỏ vào Vũng Tàu lấy ông D có con chung từ đó đến nay quan hệ hôn nhân thực tế giữa ông T1 với bà T2 đã chấm dứt từ lâu nên không còn nghĩa vụ gì với nhau nên bà T2 không được hưởng di sản của ông T1 để lại như án sơ thẩm xử là đúng.

[4] Xét sau khi bà T2 không còn sống chung với ông T1 thì năm 1985 ông T1 sống chung với bà S cho đến khi ông T1 chết có 1 con chung, có tài sản chung hợp pháp, án sơ thẩm công nhận là hôn nhân thực tế nên được chia tài sản chung và được hưởng di sản thừa kế của ông T1 là có căn cứ.

c. Giải pháp pháp lý

Thông qua nội dung Án lệ số 41/2021/AL, tình huống được đặt ra là:

Nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng, không đăng ký kết hôn nhưng sau đó họ không còn chung sống với nhau và trước khi Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 có hiệu lực, có người chung sống với nhau như vợ chồng với người khác. Quan hệ hôn nhân đầu tiên và quan hệ hôn nhân thứ hai đều là hôn nhân thực tế.

Trường hợp này, phải xác định hôn nhân thực tế đầu tiên đã chấm dứt, hôn nhân thực tế thứ hai được công nhận.

3. Lời khuyên pháp lý

Mặc dù Án lệ số 41/2021/AL tạo ra nhiều thay đổi tích cực trong việc bảo vệ quyền lợi các cặp đôi chung sống như vợ chồng mà không có giấy đăng ký kết hôn. Tuy nhiên, để đảm bảo quyền lợi đầy đủ và tránh tranh chấp về sau, việc đăng ký kết hôn là điều quan trọng.

Vì vậy, Hãng luật MIBI khuyến nghị các cặp đôi đang chung sống như vợ chồng nên thực hiện thủ tục đăng ký kết hôn để bảo vệ quyền lợi pháp lý, tránh tranh chấp về tài sản, thừa kế hoặc quyền nuôi con.

Trường hợp cần tư vấn chuyên sâu, vui lòng liên hệ TẠI ĐÂY để được Hãng luật MIBI đồng hành, hỗ trợ!

Bài viết bởi Hãng luật MIBI.

Tham khảo thêm các bài viết về chủ đề Hôn nhân và Gia đình TẠI ĐÂY và đừng quên theo dõi Hãng luật MIBI tại các nền tảng: Facebook, Youtube để cập nhật các thông tin pháp luật hữu ích.