Pháp luật về thừa kế quy định cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình. Tuy nhiên, trong một số trường hợp nhằm bảo vệ quyền lợi cho những người có quan hệ thân thiết với người để lại di chúc, pháp luật dân sự có quy định về những người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc.
Ví dụ về trường hợp ông A và bà B là vợ chồng, có 2 con gồm C (20 tuổi) và D (12 tuổi). Năm 2022, ông A lập di chúc cho bà M là chị gái của ông A được hưởng toàn bộ tài sản. Năm 2023, ông A chết, cha mẹ ông A không còn. Câu hỏi đặt ra: liệu rằng bà M có được hưởng toàn bộ di sản mà ông A để lại hay không? Quyền lợi của bà B và các con trong trường hợp này có được pháp luật bảo vệ?
Dưới đây, Hãng luật MIBI sẽ giải đáp tình huống này cho Quý bạn đọc.
1. Quy định pháp luật về người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc
Khoản 1 Điều 644 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc: “Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó: a, Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng; b, Con thành niên mà không có khả năng lao động.”
Theo đó, các đối tượng gồm con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng, con thành niên mà không có khả năng lao động thuộc diện thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc trong trường hợp người lập di chúc không cho hưởng di sản theo di chúc hoặc có cho hưởng, nhưng phần mà họ được hưởng theo di chúc ít hơn 2/3 của một suất thừa kế nếu di sản được chia theo pháp luật.
Tuy nhiên, để được hưởng phần di sản thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc thì các đối tượng trên còn phải đáp ứng điều kiện gồm: (1) không từ chối nhận di sản thừa kế; (2) không thuộc trường hợp không có quyền hưởng di sản thừa kế theo quy định tại khoản 1 Điều 621 Bộ luật Dân sự 2015.
2. Giải đáp câu hỏi
Trong tình huống nêu trên, dù ông A để lại di chúc không chia tài sản cho bà B và các con, nhưng căn cứ quy định trên thì bà B và các con vẫn có thể được hưởng phần di sản thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc của ông A, cụ thể:
- Đối với bà B: bà B là vợ hợp pháp của ông A – đương nhiên được hưởng 2/3 suất thừa kế của một người thừa kế nếu di sản được chia theo pháp luật mà không phụ thuộc vào nội dung di chúc của ông A (sau đây gọi là “2/3 suất thừa kế”).
- Đối với người con D: tại thời điểm ông A chết, D 11 tuổi – là người chưa thành niên. Do đó D cũng là đối tượng được hưởng 2/3 suất thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc của ông A.
- Đối với người con C: tại thời điểm ông A chết, C 19 tuổi – đã là người thành niên. Như vậy, cần xem xét C có phải là người có khả năng lao động hay không? Trường hợp nếu C có khả năng lao động thì không được hưởng di sản thừa kế của ông A. Trường hợp nếu C không có khả năng lao động thì được hưởng 2/3 suất thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc của ông A.
- Đối với bà M: bà M không được nhận toàn bộ di sản thừa kế theo di chúc của ông A mà chỉ được nhận phần di sản sau khi trừ đi phần di sản chia cho bà B và các con.
Lưu ý: Các trường hợp của bà B và 2 người con C, D chỉ được hưởng thừa kế nếu những người này không ký từ chối nhận di sản và không thuộc các trường hợp không được quyền hưởng di sản thừa kế theo quy định tại khoản 1 Điều 621 Bộ luật Dân sự 2015.
Ví dụ minh họa:
Giả sử khối tài sản mà ông A để lại là 4,5 tỷ đồng. Trong trường hợp này, hàng thừa kế thứ nhất của ông A gồm: bà B, C và D. Nếu chia theo pháp luật, mỗi suất thừa kế có giá trị 1,5 tỷ đồng.
Như đã phân tích ở trên, bà B và D là hai người được hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc. Do đó, bà B và D mỗi người được hưởng 2/3 suất thừa kế, tương đương giá trị 1 tỷ đồng; bà M được nhận kỷ phần còn lại tương đương giá trị 2,5 tỷ đồng. Như vậy, người chồng không thể để lại toàn bộ tài sản cho người khác mà không để lại cho vợ, con của mình phần nào – trừ trường hợp người đó không có vợ, con hoặc vợ, con đã chết.
3. Lời khuyên pháp lý
Trong đời sống, trường hợp người đã khuất có ý chí để lại di sản cho người khác (không phải cha, mẹ, vợ, con) không quá hiếm gặp. Quy định pháp luật chính là công cụ để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng cho những người ruột thịt, có mối quan hệ gắn bó với người đã khuất.
Đối với người có ý định lập di chúc, Quý bạn đọc cần nắm rõ quy định để xây dựng nội dung trong di chúc vừa đúng với ý chí của bạn, vừa phải đảm bảo cha, mẹ, vợ (chồng), con chưa thành niên của bạn đều được hưởng phần di sản tương xứng (tối thiểu là 2/3 suất thừa kế theo pháp luật).Đối với người không may thuộc trường hợp cha, mẹ (nếu bạn dưới 18 tuổi hoặc không có khả năng lao động), vợ/chồng, con của bạn lập di chúc mà không để lại di sản cho bạn, bạn có thể yêu cầu mở thừa kế để được nhận kỷ phần thuộc về bạn.
Trên đây là những giải đáp của Hãng luật MIBI về tình huống liên quan đến nội dung về quy định của pháp luật về người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc. Nếu còn bất cứ thắc mắc hoặc cần sự trợ giúp, hãy liên hệ TẠI ĐÂY để được Hãng luật MIBI tư vấn và đồng hành.
Bài viết bởi Trợ lý luật sư Cù Thị Thanh Huyền – Hãng luật MIBI
Đọc thêm bài viết cùng tác giả dưới đây:
Di chúc hợp pháp cần những điều kiện gì?
Thủ tục từ chối nhận di sản thừa kế đối với người đang chấp hành án phạt tù